Nguồn gốc Của_hồi_môn

Aussteuerschrank - một tủ của hồi môn, hiện đang ở trong một bảo tàng Đức.

Nghiên cứu so sánh của các nhà nhân chủng học Jack Goody về các hệ thống của hồi môn trên khắp thế giới sử dụng Atlas dân tộc học đã chứng minh rằng của hồi môn là một hình thức thừa kế được tìm thấy trong các xã hội Á-Âu từ Nhật Bản đến Ireland để thực hiện "phân chia tài sản" cho các con với cả hai giới tính. Thực tiễn này khác với phần lớn các xã hội châu Phi cận Sahara thực hành "thừa kế đồng nhất" trong đó tài sản chỉ được truyền cho trẻ em cùng giới tính với chủ sở hữu tài sản. Các xã hội châu Phi sau này được đặc trưng bởi việc truyền lại khái niệm "giá cô dâu", tiền, hàng hóa hoặc tài sản do chú rể hoặc gia đình anh ta trao cho cha mẹ của cô dâu (chứ không phải bản thân cô dâu).[12]

Goody đã chứng minh mối tương quan lịch sử giữa thực tiễn "phân chia tài sản" (của hồi môn) và phát triển nông nghiệp cày chuyên sâu một mặt và kế thừa đồng nhất (giá cô dâu) và mặt khác là nông nghiệp trồng trọt rộng rãi.[13] Dựa trên tác phẩm của Ester Boserup, Goody lưu ý rằng sự phân công lao động theo giới tính khác nhau trong nông nghiệp cày chuyên sâu và làm vườn chuyển dịch rộng rãi. Ở những vùng dân cư thưa thớt nơi diễn ra việc canh tác nương rẫy, phần lớn công việc nhà nông được phụ nữ thực hiện. Đây là những xã hội tạo ra giá cô dâu. Boserup liên kết thêm việc chuyển đổi nghề làm vườn với việc thực hành chế độ đa thê, và do đó, giá cô dâu được trả như một khoản bồi thường cho gia đình cô ấy vì gia đình đã bị mất đi sức lao động. Trong nông nghiệp cày việc làm nông phần lớn là công việc của nam giới; đây là nơi của hồi môn được tạo ra để trả cho gia đình chú rể.[14] Ngược lại, nông nghiệp sử dụng cày gắn liền với tài sản tư nhân và hôn nhân có xu hướng một vợ một chồng, để giữ tài sản trong gia đình hạt nhân. Gia đình gần gũi là đối tác kết hôn ưa thích để giữ gìn tài sản.[15]

Có một cuộc tranh luận học thuật về lý thuyết của Goody. Ví dụ, Sylvia Yanagisko lập luận rằng có một số xã hội bao gồm các bộ phận của Nhật Bản, Nam Ý và Trung Quốc, không ủng hộ tuyên bố của Goody rằng của hồi môn là một hình thức thừa kế nữ giới của tài sản nam giới. Bà lưu ý rằng Goody là một mô hình tiến hóa trong đó các biến lịch sử này có thể không phải là yếu tố quyết định ngày nay.[16] Ngược lại, Susan Mann lập luận với các ví dụ mà ngay cả ở cuối Trung Quốc, của hồi môn là một hình thức thừa kế cho nữ giới.[17]

Stanley J. Tambiah (đồng tác giả của Goody về "Bridewealth and hồi môn" trước đó [18]) sau đó lập luận rằng luận án tổng thể của Goody vẫn phù hợp ở Bắc Ấn Độ, mặc dù nó cần sửa đổi để đáp ứng hoàn cảnh địa phương. Ông chỉ ra rằng của hồi môn ở Bắc Ấn Độ chỉ được sử dụng một phần như một quỹ hôn nhân của cô dâu và một phần lớn được chuyển thẳng đến gia đình chung của chú rể. Điều này ban đầu dường như là ngược với mô hình của Goody, ngoại trừ ở Bắc Ấn Độ, gia đình chung gồm có bố mẹ chú rể, anh trai đã kết hôn và chị gái chưa lập gia đình và con cái thế hệ thứ ba của họ. Gia đình chung này đã kiểm soát phần này của hồi môn, mà họ dùng để giúp bổ sung cho của hồi môn của con gái/em gái mình. Nhưng khi cha mẹ qua đời và các gia đình tách ra, khối tài sản chung này sau đó được chia cho các con trai đã kết hôn, vì vậy cuối cùng, của hồi môn của cô dâu được trao cho gia đình chung đã trả lại cho cô và chồng như "quỹ chung của vợ chồng".[19]

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Của_hồi_môn http://www.britannica.com/topic/dowry http://archive.wikiwix.com/cache/20160307033238/ht... http://apps.who.int/iris/bitstream/10665/77421/1/W... //dx.doi.org/10.1086%2F203761 //dx.doi.org/10.1146%2Fannurev.an.08.100179.001113 http://www.jstor.org/stable/3773553 http://www2.ohchr.org/english/bodies/cedaw/docs/ce... http://news.bbc.co.uk/2/hi/africa/3604892.stm http://news.bbc.co.uk/2/hi/programmes/crossing_con... https://web.archive.org/web/20121224143417/http://...